THA LA XÓM ĐẠO

NguyenDu Nguyễn (nguyên GĐ Đài PT&TH Huế, nhà báo, nhà văn chuyên viết về Huế)

Mỗi dịp Noel giữa mùa đông hay mùa hoa gạo đầu hè tôi lại nhớ đến số phận của bài thơ “Tha La xóm đạo”, số phận của nhà thơ Vũ Anh Khanh.

“Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng/Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá/Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ/Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ…”.

Thời nhà Nguyễn cấm đạo thập niên 30, thế kỷ XIX, một nhóm người Công giáo ở kinh đô Huế do ông Côximô Nguyễn Hữu Trí dẫn đầu đã di cư vào Nam, đến một vùng hẻo lánh ở Trảng Bàng (Tây Ninh) khai khẩn đất hoang, giữ đạo, xây dựng nhà thờ. Tha La là tên riêng Việt hóa một từ Khmer có nghĩa như một trạm nghỉ chân.

Bài thơ “Tha La xóm đạo” của Vũ Anh Khanh viết về cảm xúc của một viễn khách đến Tha La trong thời chiến tranh chống Pháp, làng quê chịu bao khói lửa tang thương, xóm thôn vắng vẻ, nỗi buồn xót xa, hiu quạnh. Người tu hành hay con chiên ngoan đạo ở Tha La đều lên đường cầm súng chống giặc ngoại xâm:

“Tha La nguyện hy sinh/Ơ.. ơ.. hơ.. có một đám chiên lành/Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy/Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy/Lạy Đức Thánh Cha!/Lạy Đức Thánh Mẹ!/Lạy Đức Thánh Thần!/Chúng con xin về cõi tục để làm dân…/Rồi… cởi trả áo tu./Rồi… xếp kinh cầu nguyện/Rồi… nhẹ bước trở về trần…”.

Có thể nói đây là một bài thơ yêu nước hay và hiếm bởi nói về giáo dân nơi xóm đạo lên đường kháng chiến.

Bài thơ “Tha La xóm đạo” càng nổi tiếng khi được các nhạc sĩ Dzũng Chinh và Sơn Thảo phổ nhạc, soạn giả Viễn Châu cũng đã phỏng theo ý của bài thơ để viết ca khúc tân cổ giao duyên “Tha La xóm đạo”, các nghệ sĩ cải lương Chí Tâm và Lệ Thủy hát rất được mọi người yêu thích.

Tuy vậy, bài thơ không được cả hai miền Nam, Bắc nhắc đến trong các dòng văn học vì “vấn đề chính trị” của tác giả Vũ Anh Khanh, một người viết văn nổi tiếng ở Sài Gòn những năm 50 thế kỷ trước. Với miền Nam, ông là người theo kháng chiến, là Việt Minh, thậm chí là Việt Cộng, tập kết ra Bắc năm 1954. Với miền Bắc, ông là người phản bội bởi sau khi tập kết ra Bắc ông lại tìm đường trở về miền Nam và bị bắn chết ngay trên sông Bến Hải năm 1956.

Chiến tranh là vậy, tôi nhớ đến ca khúc “Lá thư trần thế” của Hòai Linh:

“Lạy Chúa con là thiếu phụ miền quê/Chồng con vì nước nên đã ra đi/Hai ba năm chưa thỏa chí/Hết Thu qua Xuân sang Hè/Con đợi tàn Đông mới tin về…”.

Nhân Noel, tôi muốn làm viễn khách về thăm xóm đạo, lần bước theo lời thơ “Tha la xóm đạo”: “Không là duyên, không là bèo kiếp trước/Không có ai chờ, ai đón tôi đâu!/Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu/Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ/Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió/Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng/Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng…”

Nhà thờ Đức Mẹ Hằng cứu giúp-dòng chúa Cứu Thế, Huế
Hoa Gạo ở Đài PT&TH Huế, đường Hùng Vương

FB Nguyendu Nguyen

P/S:

Lời bình: Bài rất tuyệt. Có chi tiết check xem có phải tác giả Vũ Anh Khanh bị bắn năm 1956 ? Vì theo HIệp định 1954 hai miền được qua về 2 năm chờ Tổng tuyển cử! (Thu Pham Huu)

Nguyendu Nguyen: Dạ bị bắn bằng súng tẩm thuốc độc thay bằng đạn vì sợ bị vi phạm lệnh đình chiến! Năm 1956 hai miền đã căng rồi anh, cán bộ nhà nước đi nghỉ phép ở Vĩnh Phúc, sửa lại Vĩnh Linh, chắc không ai cho vô Nam!

***

Tha La

Vũ Anh Khanh

Đây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh.
Ngậm ngùi Tha La bảo:
– Đây rừng xanh rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh.
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.

– Viễn khách ơi!
Hãy dừng chân cho hỏi,
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng.

Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng,
Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ.
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây? Khách hỡi? Có ai chờ?
Ai đưa đón?
– Xin thưa, tôi lạc bước!

Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, ai đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ,
Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió,
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng.
Tha La hỏi:
– Khách buồn nơi đây vắng?
Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!

– Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn,
Gió vi vút, gió rợn rùng, gió rít.
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà.
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán,
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa,
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa,
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh.
Khách rùng mình, ngẩn ngơ lòng hiu quạnh.
– Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già.
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch,
Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng.
– Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng:
“Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!

Người nước Việt ra đi vì nước Việt.
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi đau đất nước lầm than.”

           *

Trời xa xanh, mây trắng ngoẹn ngàn hàng,
Ngày hiu quạnh. Ờ.. ơ.. hơ tiếng hát.
Buồn như gió lướt lạnh dài đôi khúc nhạc
Tiếng hát rằng:
Tha La giận mùa thu,
Tha La hận quốc thù,
Tha La hờn quốc biến,
Tha La buồn tiếng kiếm,
Não nùng chưa!
Tha La nguyện hy sinh.
Ơ.. ơ.. hơ.. có một đám chiên lành.
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy.
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:
Lạy Đức Thánh Cha!
Lạy Đức Thánh Mẹ!
Lạy Đức Thánh Thần!
Chúng con xin về cõi tục để làm dân…

Rồi… cởi trả áo tu.
Rồi… xếp kinh cầu nguyện.
Rồi… nhẹ bước trở về trần…
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy dừng chân.
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ.
Trời Tha La vần vũ đám mây tan.
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi mà bẽ bàng?
Ơ… ơ… hơ… ờ… ơ… hơ… tiếng hát
Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhạc.
Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách đi thôi!

           *

Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ,
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao, vàng rụng lá rừng bay…
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
– Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành.
Tha La dâng ngàn hoa gạo,
Và suối mát rừng xanh.
Xem đám chiên lành thương áo trắng.
Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh
.


Tha La xuất phát từ “Schla” trong tiếng Khmer, có nghĩa là trạm, nơi nghỉ. Địa danh này nay thuộc xã An Hoà, Trảng Bàng, Tây Ninh. Trong kháng chiến chống Pháp, thanh niên nam nữ Tha La nhiệt tình tham gia, ra đi không hẹn ngày trở về và nhiều người đã hy sinh trên các chiến trường khiến Tha La vắng bóng người, buồn cô quạnh.

Vũ Anh Khanh viết bài thơ này vào mùa xuân năm 1949 khi về Tây Ninh ăn Tết cùng Thẩm Thệ Hà. Bài thơ được in trong tuyển tập Thơ mùa giải phóng do Sống Chung xuất bản năm 1950, với tên Tha La. Trước đó, năm 1949, tác giả có in trích đoạn của bài thơ này với tên Hận Tha La trong tiểu thuyết Nửa bồ xuơng khô của ông. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ nhạc thành bài hát Tha La xóm đạo, và Sơn Thảo phổ nhạc thành bài hát Hận Tha La.

——–

Nguồn:

https://www.thivien.net/V%C5%A9-Anh-Khanh/Tha-La/poem-SMitnXguhuzG4snkwR1H7g

***

Lời bài hát Tha La xóm đạo

Lời bài hát

Đây suối rừng xanh đồn quanh, đây mây trắng nghìn hoa với cây lành
Còn gì viễn khách về đây chi hỡi người, đất Việt giặc tràn lan
Biết Tha La hận căm, nhẹ bước gặp cụ già ngạo nghễ đang ngóng gió
Em chẳng biết gì ư? Cười rung rung râu trắng
Đã từ bao năm qua khói loạn phủ mịt mù

Nghe gió quạnh hiu, người ơi còn ai biết gì vui để tâm sự
Tận lòng đất đá chuyển rung bao thế hệ có từng đoàn người trai
Biết bao nhiêu người đi, thề chẳng trở lại nhà, mà giờ đây đã chết
Nghe gió rít từng cơn, buồn trưa trưa lây lất
Và buồn xưa xưa ngây ngất, lòng càng não nùng

Khách về chi đây, nghe tiếng hát khách hận gió đây buồn
Tiếng hờn ai oán, cời ra áo một chiều thu lửa dậy
Nghe não nùng chưa
Tha La buồn tiên kiếp, Tha La giận mùa thu
Thôi, khi hết giặc xong
Hãy về thăm Tha La có trái ngọt cây lành

Cây lá ngẩn ngơ nằm trên nghìn hoa máu làm hoen cả ven rừng
Lòng người viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh với rừng già mong manh
Đám mây tan phủ quanh, trời tối ngoẹn ngàn hàng
Lạnh dài đôi khúc hát
Vang giữa chiến trường xa, giặc đang gieo tang tóc
Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà

Nghe não nùng chưa?
Tha La buồn tiên kiếp, Tha La giận mùa thu
Thôi, khi hết giặc xong
Hãy về thăm Tha La có trái ngọt cây lành

Cây lá ngẩn ngơ nằm trên nghìn hoa máu làm hoen cả ven rừng
Lòng người viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh với rừng già mong manh
Đám mây tan phủ quanh, trời tối ngoẹn ngàn hàng
Lạnh dài đôi khúc hát
Vang giữa chiến trường xa, giặc đang gieo tang tóc
Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà

Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà
Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà
Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà