Nguyễn Thị Tịnh Thy
Quán Kỳ Nam là phim điện ảnh mới ra rạp hôm 28/11/2025.

Xem xong, lòng man mác cảm xúc về cái đẹp bình thường của cuộc sống, của tình yêu, tình người, tôi viết mấy dòng này tỏ bày lòng trân trọng và biết ơn ê-kíp làm phim đã cho mình được thưởng thức một tác phẩm điện ảnh đúng nghĩa.
Kịch bản hay, cốt truyện chặt chẽ, trước sau – đầu cuối hô ứng với nhau mạch lạc trong từng chi tiết, tiểu tiết. Tất cả đều rất tinh tế, kín đáo chứ không lộ liễu, đủ để khán giả suy tư, suy ngẫm mà không quá thách đố nặng nề.
Phim là câu chuyện về tình yêu và tình người của một khu chung cư cũ ở Sài Gòn vào thập niên 1980. Cô Kỳ Nam tuổi trung niên, vợ của một sĩ quan tâm lý chiến VNCH, từng nổi tiếng trên báo chí và truyền hình về tài dạy nữ công gia chánh. Sau 1975, trong căn bếp nhỏ, cô nấu cơm tháng cho người ta, nuôi chồng nuôi con. Khang – chàng trai giỏi tiếng Pháp, yêu văn chương nghệ thuật, đang dịch lại “Hoàng tử bé” của Saint–Exupéry. Sự đời đưa đẩy, lòng tốt đã khiến họ gặp nhau, gần nhau, hiểu nhau và yêu nhau – một tình yêu đẹp đẽ, trong sáng, tinh khôi giữa bộn bề của cuộc sống với nhiều mất mát, kiếm tìm, hy vọng và tuyệt vọng.
Tác giả kịch bản và đạo diễn lựa chọn sự tinh tế, sâu lắng thay vì kịch tính, dữ dội và ngang trái. Đó là một thử thách thực sự cho biên kịch, đạo diễn và diễn viên. Phải có một nội lực mạnh mẽ lắm, người đàn bà – thiếu phụ – goá phụ Kỳ Nam mới có thể chôn chặt những nỗi đau thất cơ lỡ vận, thay thân đổi phận xuống tận đáy lòng để bình thản sống, chờ đợi, hy vọng và chấp nhận mất mát. Tự miệng nhân vật không thốt ra một lời nào, tất cả bi kịch của đời nàng đều được hé lộ từ những nhắc nhớ tình cờ của người khác. Ở Kỳ Nam, ta chỉ thấy vẻ đẹp và cái đẹp cao sang đến giản dị, thánh thiện đến gần gũi và táo bạo đến bình thường – tự nhiên nhi nhiên – như cái gì đến thì sẽ đến. Kịch tính của nhân vật Kỳ Nam là kịch tính ngầm. Tất cả tích tụ lại trong đôi mắt, bờ vai, dáng người, lời nói ít ỏi nhưng rắn rỏi và trí tuệ, vẻ thẫn thờ, ngấn nước mắt. Những cơn bão cuộc đời, cơn sóng lòng của nàng lắng lại ở đó đòi hỏi diễn viên phải diễn xuất thật tốt. Đỗ Hải Yến đã làm được! Cô đã làm toát lên cái chất kỳ nam – vưu vật của tạo hoá – trong một người đàn bà đi qua giông bão tảo tần của cuộc đời vẫn giữ được cốt cách thanh cao, quý phái, lãng mạn mà đoan trang.
Kịch bản chọn từ khoá “chừng mực” để triển khai mọi yếu tố nghệ thuật khác. Tình cảm chừng mực, nụ hôn chừng mực, cái ôm chừng mực, cái xấu chừng mực, cái đẹp chừng mực, mâu thuẫn cũng chừng mực. Chừng mực mà không nửa vời, không ba phải. Chừng mực để con người ta có chút thoáng ngã lòng để không buông thả, thoáng đau đớn để không gục ngã, thoáng hờn ghen để không mạ mị, thoáng xấu xa để không tha hoá, thoáng tuyệt vọng để không kiệt quệ, thoáng buông lơi để không cuồng dại… Các nhân vật đều diễn được “chút thoáng” đó, và họ đều diễn rất tròn vai, từ vai chính của Kỳ Nam, Khang; cho đến các vai phụ như Su, ông Hạo, Đôn,…
Không gian chính của phim rất nhỏ hẹp, tập trung vào khu chung cư cũ với ti vi cũ, máy hát cũ, bản nhạc cũ, bàn cờ cũ, xe đạp cũ, những con người cũng “muôn năm cũ” của Sài Gòn một thời hoa lệ. Ánh sáng phim rất nhạt nhưng không gây cảm giác nặng nề; đủ để người xem nhận ra những trì đọng, cũ kỹ, tăm tối, khốn khó của một thời.
Với những người Sài Gòn xưa và những người từng biết, từng yêu Sài Gòn, cái làm ta xao xuyến vẫn là cái cũ: những bản “nhạc vàng” đậm chất vàng mười như nói thay nỗi lòng da diết và khắc khoải của nhân vật: “Xin thời gian qua mau” của Lam Phương qua giọng hát của Thanh Thuý, “Bến giang đầu” của Lê Trọng Nguyễn qua giọng hát của Hà Thanh” và “Thu sầu” của Lam Phương qua giọng hát Thái Thanh; lời bài thơ “Trường tương tư” của Lương Ý Nương; những câu văn triết lý nhẹ nhàng trong “Hoàng tử bé” hoặc của danh nhân Yersin; lối sống an bần lạc đạo với chim muông, âm nhạc, cờ tướng; nhịp điệu nước mía, cà phê sớm, chợ khuya của Sài Gòn… Và hơn hết thảy là cốt cách của người Sài Gòn – cốt cách ấy cũng như chất kỳ nam, trải qua bao mưa nắng biến động rục rã mà kết tinh thành gỗ quý; cốt cách ấy cũng như ngọc trai, âm thầm quằn quại vì đau đớn mà tiết ra chất ngọc.
“Chừng mực” của phim cũng đủ cho ta thấy những sự kiện chính trị – xã hội của Sài Gòn sau ngày thống nhất đất nước. Đó là bữa tiệc sinh nhật bị lập biên bản; là ông già tư sản bị tịch biên tài sản; là đứa con lai bị kỳ thị, bị mua bán; là viên sĩ quan cải tạo không trở về; là những người bỏ xác trên biển vì giấc mơ Mỹ không thành; là chuyện đổi tiền, chuyện gửi gắm cho “con ông cháu cha”…
Muôn mặt của Sài Gòn đều được tái hiện. Tái hiện để thấy những điều đã từng xảy ra, từng trôi qua; tái hiện chứ không đổ lỗi hay quy kết; tái hiện để hiểu hơn, hiểu sâu về bối cảnh xã hội chứ không nhằm mục đích khơi lại vết thương ngày cũ. Tái hiện này cũng chính là chất Sài Gòn của bộ phim – một Sài Gòn bao dung và hồn hậu, khiến tận trong sâu thẳm cõi lòng, ta thấy bình yên.
Sự kiện chính của phim là mối tình vượt qua khoảng cách về tuổi tác, về xuất thân của hai con người tìm thấy sự đồng điệu ở tình yêu văn chương nghệ thuật và lòng trắc ẩn với cái đẹp, với tình người. Nhưng bối cảnh phim cho thấy tác giả kịch bản và đạo diễn đã chạm đến những vấn đề vốn vắng bóng lâu nay: đó là nỗi đau con lai và nỗi đau vượt biên. Không lên gân, không dữ dội, không lên án, không kết tội, không quá buồn,… nhưng đủ làm ta nhớ, ta đau.
Phim có nhiều hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng rất giản dị, rất đời thường mà chất chứa và biểu đạt được nội tâm của nhân vật: chiếc chìa khoá cổng ở đầu và cuối phim, viên gạch chặn cửa,… đều thay lời muốn nói.
Nhân vật không nói, không khóc bằng lời mà bằng các hành động phi ngôn ngữ như ánh mắt, nét mặt, mái đầu, bờ vai, cái ôm, cái nắm tay, khoảng lặng,…
Không có những cú máy, góc quay độc đáo, hiện đại và hầu như không dùng kỹ xảo; chuyện phim không gai góc, cật vấn; nhưng Quán Kỳ Nam đúng là điện ảnh ra điện ảnh. Tất cả mọi yếu tố nghệ thuật đều vừa đủ cho những điều cần nói và không nói; cho chất bình thường lẫn bất thường và vô thường đan quyện; cho người trẻ lớn khôn thêm, cho người già trẻ lại…
Và hơn hết là cho Sài Gòn ra Sài Gòn.
Ta tìm lại một Sài Gòn chưa xa – tại thời điểm giao thoa giữa cũ và mới, giữa mất và còn, và ta xao xuyến, xúc động.
Hạnh phúc nhỏ vậy thôi, nhưng đôi khi “Hạnh phúc nhỏ cũng làm ta muốn khóc/ Đừng nói chi những chuyện xa vời”.
(Nguyễn Thị Tịnh Thy)
*****
– Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/moveekvn
– Hai câu thơ cuối của bài viết chưa rõ tác giả.
***
Mời đọc thêm bài viết của thầy Cao Huy Hóa (Toán khóa Nguyễn Du, tốt nghiệp 1963):
HƯƠNG XƯA THỀM CŨ
Nếu có ai đó như tui, một buổi chiều âm u, lọ mọ leo thang máy lên tầng cao chót vót để… xem phim, thì có thể bị xem xưa nay hiếm, nhất là thời buổi bây giờ; thế nhưng nếu như biết được hôm đó, rạp chỉ có… 10 người xem, thì chắc mọi người thông cảm. Ít người thì ông già bớt dị, và gật gù: Của hiếm như kỳ nam thì làm sao nhiều người biết tới?
Kỳ Nam là một ẩn dụ, với trầm kỳ nam là trầm vô cùng quý, một loại trầm hương đặc biệt và hiếm có, được hình thành từ nhựa cây Dó Bầu khi chúng bị nhiễm nấm hoặc bị thương. Nó là “tinh hoa” của trầm hương, có giá trị cao gấp nhiều lần trầm thông thường do sự hình thành phức tạp và tích tụ tinh dầu đậm đặc hơn.
Ẩn dụ đó là trong một phim, từ chất liệu cuộc sống (hư cấu) của một thiếu phụ đã từng là một vợ một sĩ quan cấp cao thời VNCH trước 75, là một cô giáo nữ công gia chánh đoan trang, từng trải, với một sự nghiệp đáng kể giữa Sài gòn đô hội, thế rồi qua bước ngoặt lịch sử, phải âm thầm kiếm sống bằng nghề nấu cơm tháng trong một chung cư đông đúc, trong hoàn cảnh chồng con trôi nổi theo dòng đời và nước biển. QUÁN KỲ NAM là quán đứng tên thiếu phụ đó, là nhan đề của phim mới ra mắt, khá âm thầm.
Quán là tâm điểm của một quần cư hỗn tạp với dân lao động, thừa cá tính, đa dạng nghề; từ anh bán chai bao, đồ phế liệu đến ông già châm cứu, mê cờ tướng và chính ông già đó thời trước là tư sản với khối bất động sản to đùng, nay chỉ còn là một góc trong chung cư để hành nghề; từ mấy bà sồn sồn lắm chuyện cho đến những cô gái còn giữ nét e lệ… Không gian sống chật chội, tránh nhau mà đi, nhưng cũng đủ chỗ để dung chứa tình người.
Nhân vật chính, như chứng nhân thời đại, là một trí thức từ ngoài kia vô, mải mê với tác phẩm Le Petit Prince (Hoàng tử bé) của Antoine de Saint-Exupéry, nghiềm ngẫm dịch cho bằng được; và thế là chất trí thức gặp gỡ cái sự thông minh từng trải của người thiếu phụ Sài gòn để đi đến cái kết nhẹ nhàng chấp nhận được.
Phim như gợi hương xưa, tưởng như phôi pha theo năm tháng, thế mà được những nhà sản xuất và đạo diễn nhặt lấy nơi thềm cũ, và chắc là người làm phim không mong chi ăn khách, không mong chi đạt doanh thu bao nhiêu tiền tỷ, mà chỉ mong lấy chuyện cũ mà sáng tạo.
Tôi xin viết cho vui, và tuổi tác này thì khó mà viết đúng và đủ; tôi chỉ xem, tưởng tượng và thỉnh thoảng lùi về thời xa xưa… như khi đang lim dim thì một giọng ca cất lên, cao, sang, nhẹ, huế: Chao ơi, Hà Thanh! Bến Giang Đầu của Lê Trọng Nguyễn!
Phim hay rứa, ý nghĩa rứa, xứng đáng để những ai đứng tuổi hoài niệm và sống chậm đi xem lắm chớ, nhất là những người còn lưu giữ một chút hương xưa thềm cũ – một chút cũng là quý trong thời đại này. Nhưng thôi rồi, “gánh hát” đã đi qua Huế rồi. May sao còn chút gì đó… Cô Tịnh Thy đã có bài rất hay, vừa là điểm phim đầy đặn, vừa là nhận định phim với tình cảm chan chứa sâu sắc.
Nhờ cô Tịnh Thy, năm mươi phần trăm thưởng thức phim của tôi là nhờ bài của cô trên facebook.
Facebook, 04/12/2025
***
Mời đọc thêm lời bình phim của thầy Ngô Thế Phiệt:
Tôi đi xem phim “Kỳ Nam quán”
—-
Thế rồi chúng tôi cũng xem Kỳ Nam Quán. Chỉ đi bộ có 10 phút mà được chiêm ngưỡng 2 vẻ đẹp. Nếu vẻ đẹp của Kỳ Nam được chắt ra từ đau thương đổ vỡ: chồng mất trong trại cải tạo, con trai chết trên đường vượt biển, cảnh khốn khó của người thua cuộc, thì vẻ đẹp của cô đóng vai chủ quán (Hải Yến) tôi nghĩ là của Trời ban không chắt ra từ đâu cả. Quán không phải là quán chỉ là một căn phòng chật hẹp với cái bàn chất đầy thức ăn và hàng chục cái cặp lồng đợi Su, cậu-bé-con-lai-đang-chờ-xuất-cảnh (tên Su có thể hiểu cứt su của trẻ sơ sinh cũng có thể là bắp cải (chou, tiếng Pháp) hay cục cưng tuỳ ngữ cảnh). Không gian là một mớ hỗn độn: chen lẫn hận thù, độc ác với lòng tốt nhân ái của cư dân Sài Gòn, tình-yêu-nhẹ-nhàng-sương-khói giữa người quả phụ lớn tuổi và người thanh niên trẻ chen lẫn với các tác phẩm nổi tiếng của văn học Pháp: Hoàng Tử Bé, Người đàn bà ngoại tình… Âm thanh là hợp tấu của tiếng hát Hà Thanh với tiếng rao của người thu mua phế liệu, tiếng mỉa mai dè bỉu của những người xấu tính, ganh ghét, tiếng của 2 người thầm yêu nhau bàn về tác phẩm Le Petit Prince của Saint Exupery, tiếng cộc cộc của chiếc máy đánh chữ cổ. Ánh sáng thì tăm tối lúc sáng, lúc tối theo lịch cúp điện thời bao cấp. Vượt lên tất cả là tình yêu: Vượt lên nghịch cảnh, tuổi tác, thế hệ, thời đại, hận thù… Chỉ có tình yêu mới chữa lành mọi tổn thương để có được cái quý nhất: Kỳ Nam. Kể từ “Mùa len trâu” tôi mới xem được một phim hay.
PS: Xem phim làm tôi nhớ đến một người, cô nữ sinh Đồng Khánh có ngôi nhà sàn trên 1 cái cống ở 1 con kiệt ngày ngày sau giờ học đem cà mèn cơm cho chúng tôi thời còn đi học ở ĐH Huế. Ngôi nhà và bà mẹ già tật nguyền ngồi nấu cơm tháng cho SV. Đời thực chẳng khác gì trên phim.
Ngô Thế Phiệt