Phan Hữu Phước (LH-HTK)


Nhớ trường xưa
Nơi ta đã qua một thời công tác
Một thuở ước mơ, lý tưởng thật nhiều…!
Trường TRUNG HỌC PHỔ THÔNG BẮC BÌNH, Bình Thuận .
Kỷ niệm 60 năm thành lập ( 1965- 2025 )
Sáu mươi năm so chiều dài lịch sử của đất nước thì chưa nhiều, nhưng so với một đời người xem như đã gần trọn ( 60 năm cuộc đời ! ). Đặc biệt nhất là khoảng thời gian Năm Mươi Năm sau biến động lớn của lịch sử, đã để lại trong lòng những người đi qua nó bao nỗi nhớ không phai.
Sáu mươi năm! Nhớ sao hết các thế hệ học sinh trưởng thành ra trường, bao thế hệ thầy cô giáo đã dừng chân nơi đây, đã từng một thời gắn bó với những học trò thân thương, đưa các em sang sông rồi tiếp tục chống con đò của đời mình ra đi đến những bờ bến khác …! Tôi là một trong số những người đưa đò của những năm tháng ấy, ngắn ngủi thôi, hai năm, từ 1974 đến 1976, khi trường Bắc Bình hôm nay còn là trường trung học gồm cả đệ nhất cấp và đệ nhị cấp mang tên Phan Lý Chàm – Bình Thuận.
Thời gian từ bấy đến nay quả thật quá dài, các sự kiện đã quên nhiều, còn chăng là cảm xúc trong tôi về những năm tháng ấy vẫn còn vẹn nguyên mỗi khi nhớ về…
NĂM HỌC 1974-1975:
Từ trường Đại Học Sư Phạm Huế (chế độ Sài Gòn ), chúng tôi là các sinh viên nhiều bộ môn, vừa tốt nghiệp ngành Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp ( giáo viên cấp 3 bây giờ) chọn nhiệm sở về Ty Giáo Dục Bình Thuận, sau đó chọn về các trường trung học trong tỉnh từ đầu năm học 1974 – 1975 như trường Phan Bội Châu, trường Hòa Đa, trường Tuy Phong, Hải Ninh, ….
Về trường Phan Lý Chàm có tôi ( Phan Hữu Phước (ban Lý Hóa) và Thầy Nguyễn Đôn Đường ( ban Sử Địa). Ngoài ra còn có một số giáo sư trung học đệ nhất cấp cũng về các trường.
Thầy Hiệu trưởng Lư Văn Hiệu vào đón chúng tôi ở Ty Giáo Dục Bình Thuận. Đường từ Phan Thiết về Phan Lý Chàm khoảng 70 km ngược quốc lộ I ra phía bắc, hai bên có nhiều đồn bót, kẽm gai giăng đầy, ruộng đồng quanh đó bỏ hoang, bằng chứng của chiến tranh đang hiện diện khá khốc liệt ở đây, tuy nhiên, là thế hệ thanh niên lớn lên trong khói lửa, hình ảnh đó cũng không có gì lạ với chúng tôi.
Xuống xe ở Ngã Ba Sông Mao, đi vào trong xóm người Chăm, ra gần đồng lúa là đến Trường Phan Lý Chàm. Trường không lớn, có 4 dãy phòng học và nội trú cho cả cấp 2 và cấp 3. Một hội trường nằm ngay chính giữa, có hai dãy phòng quay lưng lại với sân trường tạo cảm giác hơi bức bối. Ngoài thầy cô ở địa phương như Thầy Thông Trọng, Thầy Đặng Tịnh, Cô Thanh, Thầy Kim Ngọc Thành, Thầy Bố Xuân Hổ, Thầy Lâm Quang Tọa,… còn có nhiều thầy cô từ Sài Gòn, Đà Lạt, Phan Thiết , Huế… về dạy. Tôi chỉ còn nhớ một số tên Thầy Cô như Cô Đào, Cô Bạch, Cô Nguyệt, Cô Hương Quế, Cô Nết, Thầy Hùng (Toán), Thầy Quí, Thầy Lâm ( Sinh), Thầy Đường,…Theo Thầy Hiệu trưởng thì năm học 1974- 1975 là năm mà giáo viên của trường đầy đủ nhất, mạnh nhất, không phải thỉnh giảng giáo viên từ trường Hòa Đa lên dạy nữa, vì vậy mà Thầy rất vui. Học sinh trong trường gồm người Chăm, người Nùng và người Kinh học tập hòa thuận bên nhau. Các em ngoan hiền và khá chăm chỉ.
Bao quanh trường là xóm người Chăm, ở đây không có các hoạt động vui chơi như nơi khác, muốn giải trí phải ra khu vực người Kinh, nhưng bù lại người Chăm sống rất đoàn kết, tình cảm, chân thành. Chúng tôi đã có những ngày tháng vui vẻ, chan hòa với bà con nơi đây. Tôi, Thầy Đường và vài thầy khác thường đến nhà Thầy Hiệu, Thầy Thành, Thầy Tọa chơi, riêng tôi còn học thêm tiếng Chăm, được một Cô giáo xinh đẹp người Chăm giúp đỡ, nhờ vậy học rất nhanh! Xin cảm ơn.
Là những giáo viên mới ra trường từ xa đến, được đồng nghiệp và học sinh quí mến nên dù xa quê, chúng tôi vẫn rất vui, đem hết những hiểu biết, cộng hưởng với tình yêu thương chân thành, chúng tôi tận tình giúp đỡ, truyền đạt kiến thức đến các em. Quí hóa thay, những học sinh ngày ấy ít nhiều đều thành đạt và dù hơn 50 năm trôi qua nhiều em vẫn giữ được tình cảm thầy trò mặn nồng như ngày nào.
Từ tháng 3 năm 1975: Tin tức các tỉnh cao nguyên và miền trung làm mọi người băn khoăn, lo sợ. Sang đầu tháng 4, Nha Trang rồi Phan Rang thất thủ, nhiều thầy cô đã rời trường về quê. Nhận thấy đường bộ về Phan Thiết không an toàn, tôi xuống Phan Rí Cửa lên tàu biển vào Phan Thiết.
Ngày 19/4/1975 : giải phóng xong Phan Thiết, các thầy cô lần lượt đến trình diện chính quyền mới. Sau ngày 30/4, chúng tôi được gọi đi học chính trị rồi về lại trường cũ để tiếp tục và kết thúc năm học 1974-1975, chuẩn bị cho năm học mới. Ty giáo dục Bình Thuận phân công tôi làm Trưởng ban điều hành trường.
Trường cũ sau vài tháng nghỉ học trở nên hoang vắng, ngổn ngang. Bàn ghế, dụng cụ văn phòng bị các nhà dân và cơ quan mới ở xung quanh mang về sử dụng, giáo viên có người trở lại, có người đi luôn, học sinh cũng vậy. Sau nhiều lần thông báo triệu tập, học sinh đã trở lại khoảng hai phần ba, một số em nghỉ học do thay đổi cuộc sống, một số em theo cha mẹ về quê. Bản thân tôi và các thầy cô trở lại đã làm việc hết mình, không nề hà nặng nhẹ. Chúng tôi khiêng vác bàn ghế, sơn kẻ khẩu hiệu, tổ chức cho các em ôn tập, kiểm tra, kết thúc năm học.
NĂM HỌC 1975 – 1976:
Năm ấy trường không nghỉ hè, bởi sau khi kết thúc năm học, tất cả giáo viên vào Phan Thiết học chính trị và nghiệp vụ. Rất nhiều chuyên đề tôi không còn nhớ lắm như: “ Nền văn hóa nô dịch , phản động và đồi trụy của Mỹ Ngụy”; “Ba cuộc cách mạng: CM Khoa học kỹ thuật; CM quan hệ sản suất; CM văn hóa tư tưởng”, trong đó CMKHKT là then chốt; “ Các hình thức sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu toàn dân”;…Về nghiệp vụ được học: cách xác định mục đích yêu cầu của bài giảng, các bước lên lớp, các nội dung mới về các môn xã hội như văn, sử, địa. Các môn tự nhiên cũng có thay đổi nhưng ít hơn. Thật ra chúng tôi cũng mới nghe lần đầu nên chưa hiểu lắm vào lúc đó, tuy nhiên năm học mới vẫn tiến hành theo những điều vừa được trang bị.
Đây là năm học đầu tiên sau 1975, rất nhiều cái mới, rất nhiều khẩu hiệu được lên trưng lên : “Vì lợi ích mười năm trồng cây – Vì sự nghiệp trăm năm trồng người” , “ Học đi đôi với hành – Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất – Nhà trường gắn liến với xã hội”…..
Thời gian này, nhà trường hoạt động trong điều kiện rất khó khăn. Ty Giáo dục Bình Thuận chỉ cấp cho trường một số giấy tờ văn phòng phẩm, vở và giấy kẻ ngang cho giáo viên….Rất nhiều việc cần chi tiêu nhưng không có kinh phí, phải ra ngoài UB huyện Phan Lý Chàm nhờ giúp đỡ. Lương giáo viên vẫn chưa có, mỗi người chỉ được lĩnh một ít tiền tượng trưng, một ít gạo hay thực phẩm thay gạo để xoay xở trong tháng. Tuy vậy, mọi người đều rất cố gắng làm việc, ai cũng hăng say cống hiến, không hề tính toán.
Do trường chỉ có một Trưởng ban điều hành là tôi, không có các phó ban nên tôi ngoài công tác quản lý, lo đối nội đối ngoại, còn phải kiêm nhiệm công tác chuyên môn. Cũng may về công tác lao động có Thầy Nguyễn Đôn Đường nhiệt tình phụ trách cho. Tôi còn nhớ trên cái gò cao ở khoảng giữa hội trường và dãy 2 phòng học, Thầy Đường cho dựng 2 tấm bảng ghi các nội dung: “Lao động là vinh quang” và “Bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm”, để khuyến khích, động viên tinh thần lao động của học sinh. Thầy muốn san cái gò đó thành một bãi đất để trồng rau nhưng… cái gò đó sao mà cứng quá, toàn đá sỏi lâu năm, rồi nghe các thầy cô người địa phương nói đó là gò thiêng nên cuối cùng đành …thôi. Bù lại, Thầy tổ chức học sinh làm lại con đường dẫn vào trường, làm cỏ quanh trường, làm vệ sinh tất cả các phòng học giúp quang cảnh trở nên sạch đẹp và khang trang hơn. Thầy còn cho học sinh trồng lúa ở hai thửa ruộng của trường sau dãy nhà nội trú cũ gọi là để có cái bỏ bụng về sau!
Cảm ơn người bạn thân “ cùng một lứa bên trời lận đận” ( – Cũng vẫn mày tau tới tận chừ!)
Nhớ lại lúc bấy giờ bản thân thầy cô và học sinh có rất nhiều tâm tư, trăn trở: Gia đình có người đi học tập cải tạo, công việc hoặc buôn bán không còn như xưa…nhưng do niềm vui hòa bình đang òa vỡ, choáng ngợp trong mỗi người dân Việt Nam sau bao năm chiến tranh, do tin tưởng vào một ngày rất gần tương lai đất nước đầy sán lạn, những người thân sau một khoảng thời gian ngắn học tập về chính trị để hiểu nhau hơn, xóa bỏ hận thù dân tộc, sẽ được trở về cùng toàn dân ta chung tay xây dựng lại đất nước phát triển nhanh chóng… nên mỗi người tự động viên mình và người thân, học trò của mình hãy cố lên làm việc, học tập.
Tôi ra vào Ty Giáo dục Bình Thuận ở Phan Thiết nhiều lần, hai bên đường những đồn bót, dây kẽm gai ngày xưa giờ không còn, đâu đó đồng lúa lên xanh, rải rác các xóm chợ nhỏ tự phát họp hai bên đường. Các mái trường cấp một, cấp hai tuy dấu vết bom đạn vẫn còn loang lổ trên tường vôi, mái lợp nhưng đã rộn rã tiếng cười trẻ thơ, thấp thoáng hình bóng thân yêu của học sinh vui vẻ đến trường,… lòng tôi cũng ánh lên những mừng vui và hy vọng qua những hình ảnh đổi thay, thanh bình ấy.
Trường thiếu thầy cô nhưng mọi người sẵn sàng dạy đủ số tiết mỗi môn, không để trống tiết. Bản thân tôi đi họp nhiều, thầy cô khác dạy thay bằng môn của mình, tôi về sẽ dạy bù, mỗi tuần có thể đến 30 tiết, gồm 3 môn Toán, Lý, Hóa. Lúc này không có chế độ giờ thừa nhưng các thầy cô không hề so đo hơn thiệt. Có thể ngày ấy phần soạn về mục đích yêu cầu bài giảng còn nhiều lúng túng, thậm chí bài giảng theo theo thiết kế mới còn vụng về nhưng không khí làm việc trong trường thì thật tuyệt vời, có lẽ khó tìm lại được những tháng ngày làm việc, cống hiến vô tư và hết mình như những ngày tháng đó!
Năm học sôi động, miệt mài, tin yêu cũng dần qua.( Suốt những năm tháng còn lại của đời dạy học, tôi không bao giờ tìm lại được cái không khí làm việc tuyệt đẹp như năm học ấy nữa. Không bao giờ!). Gần nghỉ hè có một số thầy cô từ ngoài Bắc vào chi viện, trong đó có thầy Nguyễn Văn Nhiễn, giáo viên chính trị, người mà chúng tôi lúc ấy rất khâm phục, thầy hiểu biết về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội rất rõ, có những điều khi học chính trị chưa rõ lắm, đem hỏi thì thầy trả lời thao thao bất tuyệt.
Sở Giáo dục Thuận Hải ( gồm hai ty giáo dục Ninh Thuận và Bình Thuận) đặt ở Phan Rang triệu tập tôi ra Sở để giao nhiệm vụ mới : Thành lập Trường Cấp 3 Vừa Học Vừa Làm Hàm Thuận. Thầy Nguyễn văn Nhiễn sẽ thay tôi điều hành trường Phan Lý Chàm từ năm học mới.
RA ĐI
Khi ra đi nếu biết là mãi mãi
Thêm một lần xin mãi mãi chia tay
( Lord Byron )
Gần cuối hè năm 1976, tôi chuẩn bị vào Hàm Thuận, mang một theo phong bì dán kín do ông Nguyễn Trung Hậu, Giám đốc Sở giáo dục Thuận Hải gửi cho Bí thư huyện Hàm Thuận ( ông Năm Nhẫn), một thư giới thiệu tôi về chuẩn bị thành lập trường vhvl Hàm Thuận, và còn có một thư tay viết cho riêng tôi của một người tôi không quen, ký tên là Nguyễn Tạo (?) Trưởng phòng Tổ chức Sở giáo dục Thuận Hải, với lời lẽ rất cảm động, thân thiết, động viên tôi, như một người anh dặn dò em mình trước lúc lên đường nhận công việc khó khăn mới!
Một sự tình cờ làm ngày đi của tôi phải chậm lại một ngày. Hè năm đó, thời tiết quanh khu vực trường có những biến đổi bất thường. Trước hè, một cơn lốc lớn vào ban đêm cuốn bay cả phần mái trên của hội trường ra ngoài ruộng hơn cả trăm mét, vương vãi nhiều nơi, Thầy Đường phải huy động học trò thu nhặt mang về phân loại để có kế hoạch tận dụng lại. Rồi trước ngày tôi đi, mưa tầm tả, đến chiều tối thì hai đám ruộng của trường ở phía sau vừa mới chín bị ngập hoàn toàn trong nước. Thầy cô địa phương cho biết cần phải thu hoạch ngay nếu không thì lúa bị nước ngâm lâu sẽ hỏng hỏng. Thật khó vì học sinh đang nghỉ hè, nhưng còn nước còn tát, các thầy cô ở gần trường đi thông báo, huy động một số học sinh đến gặt lúa giúp. Cũng đã đưa ra phương án nếu không được phải nghĩ đến chuyện thuê người. Ai ngờ, sáng hôm sau, tuyệt vời làm sao, khoảng hai chục em học sinh xuất hiện trước cổng trường, mang theo dụng cụ để gặt lúa! Nhân lực được chia thành hai tốp, một tốp chủ lực sẽ gặt, bó lúa, tốp thứ hai gồm học sinh và một số giáo viên ôm lúa mang lên dựng quanh hành lang các lớp học cho mau ráo nước! Lẽ ra phải lên đường đi Hàm Thuận nhưng cứu lúa cũng nóng như cứu lửa, tôi ở lại cùng đồng nghiệp và học sinh cũ ! ( Ngậm ngùi làm sao khi phải gọi như vậy!)
Ôi, bì bõm trong nước lạnh ngập thắt lưng trên nền ruộng lổm chổm cuống rạ, tay ôm từng bó lúa lần đầu tiên trong đời sát vào người, đã tạo nên trong tôi một cảm giác vừa lạ lẫm, vừa thân thương khó tả đối với một người chỉ quen sống ở thành thị! Làm sao tôi có thể quên?!
Quá trưa thì công việc hoàn thành. Tôi tranh thủ phơi quần áo ướt, ăn cơm, nghỉ mệt và chuẩn bị lên đường. Khoảng 4 giờ chiều, tôi mang hành lý chuẩn bị ra quốc lộ để đón xe vào Phan Thiết thì thấy lao xao phía cổng, một tốp học sinh chạy vào giữ hành lý, níu tôi lại, trách tôi sao đi mà không cho các em biết (có lẽ buổi sáng khi gặt lúa một vài giáo viên hỏi tôi về chuyện ra đi nên một số em nghe được), tôi nói do yêu cầu công tác và không muốn bịn rịn thêm. Các em không chịu, đề nghị tôi ở lại thêm một đêm để thầy trò tâm sự từ biệt, một số em còn sụt sùi khóc, tôi đành phải chấp nhận.
Trời vừa tối, các em gánh vào trường một gánh lỉnh kỉnh như bán hàng rong, đó là gánh cháo vịt! Đêm hôm đó, tôi và một vài bạn giáo viên, cùng với một số học sinh mà đã quá lâu tôi không còn nhớ chính xác: Kim ngọc Nhân, Ngô văn Hưng (Dĩ), Võ duy Quang ( Võ Đen), Đào văn Trung, Nguyễn Lạnh,Thái Thanh, Nồng Trinh, Linh, Loan Tao (con ông Tao), Loan Việt Nam (nhà may Việt Nam), Loan Mỹ Trang ( nhà may Mỹ Trang), Lê thị Hiếu, Cao thị Tuyết Lâm,…gần như thức trắng đêm (còn nhiều em nữa mà lâu quá tôi không nhớ hết). Thầy trò ôn lại chuyện vui buồn trên lớp, dặn dò cố gắng học tập, rồi tôi đệm đàn cho các em hát các bài ca tranh đấu của phong trào sinh viên học sinh miền Nam mà tôi đã dạy các em, hát các bài ca cách mạng vừa mới biết… Một đêm sinh hoạt đầy niềm vui, nỗi buồn, lòng cảm động, tình yêu thương gắn bó chan hòa khiến bước chân tôi khi ra đi sáng hôm sau thêm trĩu nặng. Xin tri ân tình nghĩa thầy trò những tháng ngày gian nan !
Quyến luyến mấy rồi cũng đến giờ chia tay. Các em đến mang hành lý cho tôi ra ngã ba Sông Mao, đón xe khách bịn rịn tay nắm chặt tay tiễn tôi lên đường!
Tuy lòng lưu luyến nhưng tôi không buồn vì trước mắt còn phải nghĩ suy bao nhiêu việc làm mới, đến một vùng đất mới, xây dựng trường học mới, tiếp đón thầy cô mới, thu nhận học sinh mới… Tôi vẫn cảm thấy thú vị pha chút khinh bạc của tuổi trẻ, những khó khăn đều coi là chuyện nhỏ, niềm tin yêu vào cuộc sống tươi đẹp sau chiến tranh vẫn lấp lánh mạnh mẽ trong lòng tôi. Tôi vui vẻ mạnh dạn ra đi để thành lập trường cấp 3 vừa học vừa làm Hàm Thuận mà hành trang chỉ một tấm lòng đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ, một lý tưởng trong veo như tuổi học trò! Ôi đẹp làm sao!
Thời gian trôi qua, trường cũ của tôi sau đó đổi tên thành Trường Trung Học Phổ Thông Bắc Bình và dời ra thị trấn Chợ Lầu. Tôi có ghé trường mới vài lần theo đoàn công tác của Sở Giáo dục Bình Thuận (trong dịp Thanh tra, coi thi,…). Đồng nghiệp ngày xưa không còn ai, một vài học sinh cũ giờ thành giáo viên của trường. Cũng những tiếng chào thầy rất đổi thân thương trìu mến gợi nhớ tháng ngày xưa cũ ấy, nhưng tôi vẫn chạnh lòng bởi cảm thấy mình trở nên lạc lõng trong lao xao tiếng nói cười của số đông thầy cô mới và những khuôn mặt lạ hoắc của học sinh. Cảm giác ấy thoáng qua thôi rồi nhường chỗ cho niềm vui mừng khi thấy trường ngày càng xanh hơn, lớn hơn, đẹp hơn sau mỗi lần trở lại!
CHỈ CÒN LÀ KỶ NIỆM!
Mỗi chúng ta khi lớn lên, đi vào thực tế cuộc sống, những mơ ước và hy vọng rất đẹp đầu đời có thể thay đổi, thậm chí trở thành cay đắng ! Với tôi cũng vậy, nhưng, những kỷ niệm về một mái trường nơi mình mới chập chững vào nghề và đặc biệt là những tháng ngày đã đem sức trẻ của tuổi thanh xuân, cháy hết mình với lý tưởng mình cho là cao đẹp, vẫn mãi là ngọn lửa sưởi ấm trái tim suốt cả cuộc đời.
P/S: Những nhân vật trong bài viết đều là người thật, việc thật nhưng do thời gian qua đã lâu và bài viết quá vội, không kịp tìm lại tư liệu nên có thể họ, tên người bị nhầm hoặc bị sót. Mong được thông cảm và tha lỗi.
Phan Thiết , tháng 9 năm 2015
Sài Gòn, tháng 11 năm 2025
PHAN HỮU PHƯỚC