THẦY NÀO TRÒ NẤY!

Bài viết cũ, đăng lại để thân tặng quý đồng nghiệp và các em học sinh cũ của tôi nhân 20/11.

Lê Thí (SĐ-HTK)

THẦY NÀO TRÒ NẤY!

Nguyễn Duy Hiệu có tên chữ là Hữu Thành, quê ở làng Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, nay là phường Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ông sinh năm Đinh Mùi, Thiệu Trị thứ 7 (1847), là năm mà hai tàu chiến của Pháp Gloire và Victorieuse, do Trung tá Rigault De Genoully chỉ huy bắn phá vào cửa Hàn, báo động một thời kì đen tối của lịch sử quê ông.

Năm 1876, ông thi đỗ Cử nhân, ba năm sau, trong khoa thi Hội năm Kỉ Mão (1879) đỗ Phó bảng. Năm 1882, được vua Tự Đức bổ làm Giảng tập ở Dưỡng Thiện Đường để dạy cho hoàng tử Ưng Đăng, người sau này lên ngôi là vua Kiến Phúc. Được cử đảm nhận việc dạy cho hoàng tử là một vinh dự lớn, thể hiện sự đánh giá cao của nhà vua không những về học vấn mà còn về nhân cách.

Năm 1885, ông từ quan. Triều đình ban cho ông tước Hồng Lô tự khanh, vì vậy người đương thời thường gọi ông là Hường Hiệu hoặc Hường Thanh Hà.

Lúc nhỏ Nguyễn Duy Hiệu theo học với cụ Cử nhân Lê Tấn Toán (1) những bài học vỡ lòng không những về kiến thức mà cả về tiết tháo, đạo đức của một kẻ sĩ, về lòng yêu nước thương dân. Còn cụ cử Toán đã gửi cả hoài bão lớn lao không thành của mình vào cậu học trò nhỏ, thông minh tuấn tú, giàu lòng yêu nước và hết sức nghĩa khí là Nguyễn Duy Hiệu. Tình thầy trò vì thế đã trở thành tri kỉ.

Sau khi vua Tự Đức mất (1883) triều đình trở nên rối ren với cảnh:

Nhứt giang lưỡng quốc nan phân Thuyết,

Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường.

(Một dòng sông mà hai nước khó mà nói chuyện//Bốn tháng ba vua là điều không rõ ràng)

Lấy cớ phải phụng dưỡng mẹ già trên 80 tuổi, Nguyễn Duy Hiệu xin về trí sĩ, dù lúc đó chỉ mới 36 tuổi.

Năm 1886, khi phong trào Cần Vương của Quảng Nam (thường gọi là Nghĩa Hội Quảng Nam) gặp khó khăn, Trần Văn Dư (1832-1885), thủ lĩnh của phong trào bị sát hại, Nguyễn Duy Hiệu được tôn làm Hội chủ, tiếp tục lãnh đạo công cuộc kháng Pháp. Phong trào từ đó trở nên rất mạnh, ông xây dựng cả một triều đình, lãnh thổ kéo dài từ Quảng Nam cho đến Bình Định. Triều đình Huế và thực dân Pháp tìm mọi cách để lôi kéo ông về hàng và tiêu diệt phong trào.

Tuần vũ Quảng Nam lúc bấy giờ là Châu Đình Kế bèn tổ chức một bữa tiệc rượu và cho mời cụ cử Toán đến với mưu đồ ép buộc thầy viết thư gọi học trò ra hàng (vào thời đó, học trò không nghe lời thầy, để thầy bị vạ lây sẽ bị mang tiếng là bất nghĩa). Giữa tiệc rượu sau khi hết lời ca ngợi tài đức của cụ cử, Châu Đình kế nói khích: “Thiên hạ khen thầy là người đức độ. Triều đình mong thầy, đào luyện học trò thành tài để giúp nước. Ngờ đâu thầy lại có một đứa học trò như Hường Hiệu, thật là thằng giặc”. Đang cầm chén rượu trên tay, không dằn được nộ khí, cụ Cử Toán liền đứng dậy ném chén rượu xuống nền nhà và mắng vào mặt Châu Đình Kế: “Thời thế này biết ai là giặc, ai là vua. Quan Tuần nên cẩn thận lời nói”. Mắng xong cụ đùng đùng bỏ về. Châu Đình Kế bị một phen mất mặt.

Hành động nghĩa khí của người thầy khả kính đã làm cho học trò càng thêm quyết chí dốc lòng vì Nghĩa hội.

Cuối năm 1887, triều đình Đồng Khánh và thực dân Pháp quyết chí tiêu diệt phong trào nên dồn lực lượng để tiêu diệt phong trào. Quân triều và quân Pháp tấn công vào tận sào huyệt của nghĩa quân ở căn cứ Trung Lộc (Quế Sơn). Cả gia đình Nguyễn Duy Hiệu đều bị giặc bắt, Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến (2) phải chạy xuống vùng biển An Hòa (phía Đông Nam Tam Kỳ). Sau khi tổ chức cho Phan Bá Phiến tự tử để giữ toàn bộ bí mật cho tổ chức. Nguyễn Duy Hiệu đã đem thân cho giặc bắt nhằm nhận hết trách nhiệm về mình tránh cho các đồng nhân khỏi bị tội.

Ngày rằm tháng Tám năm Đinh Hợi (1-10-1887), Nguyễn Duy Hiệu ra pháp trương đền nợ nước. Trước khi chết, ông có để lại hai bài thơ nổi tiếng, trong bài thứ hai có câu: “Hàn sơn kỷ đắc cô tùng cán/ Đại hạ yên năng nhất mộc chi/ Hảo bả đan tâm triều liệt thánh/ Trung thu minh nguyệt bạn ngô qui”. Cụ Huỳnh Thúc Kháng dịch: “Núi lạnh tùng côi xơ xác đứng/ Nhà to cột một khó ngăn ngừa/ Về chầu liệt thánh lòng son đấy/ Tháng tám trăng rằm sẵn nhịp đưa”. Pháp và Nam triều cho ngựa trạm đặc biệt hỏa tốc đưa thủ cấp của ông về Điện Bàn, quê ông, bêu lên nhằm răn đe dân chúng. Mảnh đất dùng để bêu đầu ông ngày ấy nay là khuôn viên trường THPT Nguyễn Duy Hiệu.

Trước đó, ngày 6-9-1887 (20-7 Đinh Hợi), thầy giáo Cử nhân Lê Tấn Toán bị bắt đưa về Tỉnh đường Quảng Nam và bị buộc tội làm quân sư cho “ngụy hội”, phải thọ hình “tam ban triều điển”, ông khảng khái nhận chén thuốc độc để giữ tròn nghĩa khí. Nghe tin thầy mất các học trò của thầy Lê Tấn Toán đã tụ tập trước tỉnh đường Quảng Nam, mua một tấm lụa phong kín thi thể của thầy, lấy khăn điều bịt đầu kết lại thành võng đưa thầy về quê ở làng Hà Lộc mai táng trọng thể.

Thầy giáo Lê Tấn Toán và học trò Nguyễn Duy Hiệu được người đời khen ngợi: “Thầy ra thầy, trò ra trò”, “Thầy nào trò nấy”.

(1)) Người làng Hà Lộc, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, nay là phường Điện Bàn Đông, thành phố Đà Nẵng. Ông đỗ Cử nhân năm 1861.

(2) Người làng Kỳ Lộc, huyện Hà Đông nay là xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam, đỗ Cử nhân năm 1882, là cánh tay mặt của Nguyễn Duy Hiệu, phụ trách toàn bộ giấy tờ sổ sách của Nghĩa Hội.

(3, 4) Nguyễn Sinh Duy, Phong trào Nghĩa Hội Quảng Nam, Nxb Đà Nẵng, năm 1998.

Lê THí

Mộ cụ Lê Tấn Toán