Việt Nam: Quá khứ không vui và không thành thật

Tác giả, Joaquin Nguyễn Hòa

Vai trò, Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ San Jose, Hoa Kỳ

9 giờ trước

Quá khứ Chiến tranh Việt Nam, câu chuyện hàn gắn giữa người Việt thời hậu chiến và nhiều vấn đề khác đã được đặt ra trong bối cảnh chính trị nước Mỹ đang có những diễn biến không tiền khoáng hậu.

Trong hai ngày, 18 và 19 tháng 9/2025, tại Đại học U.C. Berkeley đã diễn ra một cuộc hội thảo mang tên Những thách thức của hòa bình: Quan hệ Việt-Mỹ từ năm 1975 (The Challenges of Peace: US-Vietnam Relations since 1975).

Quá khứ đã được liên tục nhắc lại.

Quá khứ này không phải là quá khứ giữa Hà Nội và Washington, mà là quá khứ giữa Hà Nội và Sài Gòn, cụ thể hơn là Sài Gòn nhỏ, những khu cộng đồng người Việt hải ngoại, đông nhất là tại Hoa Kỳ.

Quá khứ đó xuất hiện ngay trong cuộc thảo luận đầu tiên mang tên Nhìn lại và Nhìn về phía trước: Những bài học từ một mối quan hệ đối tác (Looking Backward and Forward: Lessons from a Partnership). Tên của cuộc thảo luận có ý rõ ràng về quan hệ đồng minh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong Chiến tranh Việt Nam. Có hai bài nói về quan hệ đồng minh đó, của ông Hoàng Đức Nhã, cựu Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi VNCH, và ông John Negroponte, cựu Đại sứ Mỹ tại VNCH.

Nhưng người ta chú ý nhiều hơn bài của diễn giả Vũ Thanh Thủy, một thông tín viên chiến trường ở VNCH trước năm 1975.

Hà Nội và cộng đồng hải ngoại

Bà Thủy, đến Mỹ bằng con đường vượt biển hiểm nghèo, trong bài nói đầy xúc động của mình, cho rằng quan hệ giữa Hà Nội và cộng đồng người Việt hải ngoại không thể được xây dựng trên một ký ức bị Hà Nội chọn lọc, chỉ viết lịch sử có lợi cho mình.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 2025, trong buổi lễ lớn kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong lời dẫn chương trình của buổi lễ, từ “Mỹ Ngụy” đã giảm tần số xuất hiện, nhưng từ “giải phóng” thì vẫn còn dày đặc. Các tài liệu lịch sử chính thống công khai ở trong nước không có đề cập đến những thảm cảnh thuyền nhân và trại cải tạo, hai thảm cảnh có thể nói là gây chấn thương tinh thần rất lớn cho người Việt hải ngoại.

Trước đó vài ngày, ông Tô Lâm có viết một bài về sự kiện 50 năm kết thúc chiến tranh, trong đó ông nói rằng đừng để chiến tranh vẫn là hố ngăn cách giữa người Việt với nhau.

Tại cuộc hội thảo, trả lời các câu hỏi liên quan đến phát biểu của ông Tô Lâm nói riêng, cũng như của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung về “hòa hợp hòa giải”, ông Hoàng Đức Nhã cho rằng nếu chỉ nói thì rất là rẻ tiền. Ông Hoàng Đức Nhã cũng nói như vậy trong phần trình bày của mình về tương lai quan hệ Việt-Mỹ, trong đó cộng đồng người Việt hải ngoại vẫn có sự tác động vào chính sách của Mỹ.

Vấn đề quan hệ giữa Hà Nội và cộng đồng người Việt hải ngoại được đề cập rõ trong cuộc thảo luận thứ ba, mang tên Những thách thức đi đến sự hòa giải (Challenges to Reconciliation). Trong cuộc thảo luận này có bài của một diễn giả từ Hà Nội, trích dẫn những tài liệu “nội bộ” của Đảng Cộng sản Việt Nam, liên quan đến chính sách của họ đối với người Việt hải ngoại. Một tài liệu lý thú, trước năm 2000, bằng một ngôn ngữ rất rõ ràng không che đậy, nói rằng người Việt tại các quốc gia phương Tây là những người phản bội tổ quốc, được xem như rất phức tạp và nguy hiểm cho an ninh quốc gia của Việt Nam.

Cái nhìn dữ dội và khắc nghiệt này của Đảng Cộng sản chỉ thay đổi sau khi Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về kinh tế trong những năm 1980 và sau khi Đổi Mới.

Trong cuộc thảo luận này, diễn giả Alex-Thái Đình Võ có nêu ra một cách tiếp cận mới trong câu chuyện hòa giải, đó là dùng từ hóa giải chứ không phải là hòa giải, và nó là một quá trình, một chiếc cầu, chứ không phải là một điểm đến cụ thể (endpoint). Ông Alex-Thái cũng đề cập đến những vấn đề đã được bàn đến từ lâu nay, đó là việc tìm kiếm người mất tích trong chiến tranh của cả hai bên Việt Nam. Ông cho biết rằng chính ông là người sẽ đưa cho phía Hà Nội những tài liệu liên quan đến bộ đội miền Bắc tử nạn trong chiến tranh. Ông dẫn lời một người được phỏng vấn rằng khi thắp hương thì hãy thắp hết cho tất cả các nấm mồ.

Một diễn giả chính của buổi hội thảo là bà Elizabeth Phù, từng là cố vấn các vấn đề Đông Nam Á cho các tổng thống G.W. Bush và Barrack Obama. Bà không kìm được xúc động khi kể lại câu chuyện gia đình bà từng bị ở tù vì vượt biển, những thảm cảnh của thuyền nhân và con đường đi đến một vị trí quan trọng trong ngành ngoại giao Hoa Kỳ. Bà cho biết rằng bà luôn có những cảm xúc đứng trước những kẻ thù cũ khi chuẩn bị chương trình tiếp đón các nhà lãnh đạo Hà Nội.

Một điều khá thú vị tôi phát hiện ngay sau buổi hội thảo là báo Sài Gòn Giải Phóng của Đảng Cộng sản Việt Nam từng có bài viết về bà Elizabeth Phù khi bà được giữ chức cố vấn các vấn đề Đông Nam Á trong chính phủ Mỹ (bản tiếng Anh), nhưng lược bỏ mất lịch sử bị đi tù và thuyền nhân của bà.

‘Con voi trong phòng’

Một con voi lơ lửng trong phòng mà một số khán giả đã nêu ra trong phần câu hỏi, đó là tình trạng bất an của chính trị Mỹ hiện nay (“Con voi trong phòng” là thành ngữ chỉ vấn đề lớn, ai cũng thấy nhưng lảng tránh, không bàn tới).

Một khán giả nêu lên vấn đề sân golf mà tập đoàn Trump thực hiện ở Việt Nam, gây nên sự phản đối của một số nông dân ở Hưng Yên khi họ bị trưng dụng đất, vị khán giả hỏi rằng liệu rằng chúng ta (nước Mỹ) có tốt hơn họ (Việt Nam). Không có câu trả lời.

Người khán giả ấy cũng đặt câu hỏi với bà Elizabeth Phù, khi bà ca ngợi đất nước đã cưu mang và cho bà con đường đi đến thành công, rằng liệu nước Mỹ có trở lại như xưa? Bà Elizabeth Phù trả lời rằng bà tin tưởng điều đó.

Khi bàn đến những bất đồng giữa người Việt với nhau, bà Liên Hằng Nguyễn, một giáo sư sử học từ Đại học Columbia nhắc mọi người hãy nhìn nước Mỹ hiện tại, để thấy rằng người Mỹ cũng chia rẽ sâu sắc.

Trong cuộc thảo luận về vấn đề hoạt động xã hội ở Việt Nam, với diễn giả là bà Hoàng Thị Minh Hồng từng bị nhà cầm quyền Việt Nam bắt giam vì hoạt động bảo vệ môi trường, và hiện là người tị nạn chính trị tại Mỹ, tôi có hỏi rằng bà có thấy những luật lệ bảo vệ môi trường ở Mỹ hiện đang bị tấn công hay không. Bà nói rằng bà nhận thấy điều đó.

Với tầm quan trọng là một cuộc hội thảo 50 năm kết thúc cuộc chiến, số lượng người tham dự không đông như mong đợi (số chỗ dành cho đăng ký là 170 người), chỉ chưa tới 100 người có mặt trong khán phòng. Nguyên nhân có thể nằm ở tình trạng bất an trong gần một năm qua, trong việc tìm kiếm nguồn kinh phí để tổ chức, sau khi nguồn tài chính quan trọng là Viện Hòa bình bị chính quyền Mỹ hiện tại xóa sổ. Cuối cùng thì hội thảo đã diễn ra, và đó là kết quả của một nỗ lực rất lớn của những người tổ chức.

Tác giả Joaquin Nguyễn Hòa là một người viết tự do sống tại San Jose, California, Hoa Kỳ.

Nguồn: FB. Tnha Nguyen cùng với Nhien Nguyen

***

Những trở ngại trong quan hệ Mỹ-Việt từ sau 1975

Tác giả, Bùi Văn Phú

Vai trò, Gửi cho BBC Tiếng Việt từ Berkeley, California

25 tháng 9 2025

Chiến tranh Việt Nam chấm dứt vào ngày 30/4/1975, ghi dấu sự thất bại của Hoa Kỳ sau 20 năm can dự, qua 5 đời tổng thống.

Cuộc chiến đó đã làm hao tốn xương máu và tài nguyên của các bên tham gia, cùng biết bao giấy mực để ghi lại, phân tích những biến cố, những chính sách và chiến lược.

50 năm sau và thêm 8 đời tổng thống Mỹ, tuy Việt Nam nay không còn là quan tâm của đại đa số quần chúng như thời chiến tranh, nhưng một nước Việt Nam thống nhất về địa lý vẫn nằm trong chiến lược của Mỹ và vẫn được các nhà nghiên cứu về chính trị, sử, xã hội, kinh tế, quốc phòng và những nhà hoạt động môi trường, xã hội dân sự, những người tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền quan tâm vì những vấn đề tồn đọng sau chiến tranh và các chính sách của Hà Nội.

Những chủ đề liên quan đã được trình bày trong một hội nghị quốc tế tổ chức vào hai ngày 18 và 19/9/2025 tại Đại học U.C. Berkeley với sự tham dự của nhiều học giả, nghiên cứu sinh từ các đại học Hoa Kỳ, Việt Nam, Singapore, Pháp; cùng các cựu lãnh đạo, phóng viên, nhà hoạt động.

Hội nghị “The Challenges of Peace: US-Vietnam Relations Since 1975” (Các thách thức của hòa bình: Quan hệ Mỹ-Việt từ 1975) do Center for Southeast Asian Studies (Trung tâm Đông Nam Á học, Đại học U.C. Berkeley) và US-VN Research Center (Trung tâm Nghiên cứu Mỹ-Việt, Đại học Oregon, Eugene) phối hợp tổ chức.

Có những đề tài kinh điển như quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ-Việt Nam từ 1986 đến 1988 của nghiên cứu sinh Zachary Tayler, Đại học Ohio.

Chính sách “Ngoại giao cây tre” được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đẩy mạnh như là chủ trương của Việt Nam trong quan hệ với thế giới, đặc biệt là với các cường quốc Nga, Mỹ, Trung. Nhưng nay Tổng Bí thư Tô Lâm không dùng cụm từ đó, và Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng chỉ nhắc đến vài lần trong thời gian qua. Theo Tiến sĩ Nguyễn Khắc Giang, hiện đang nghiên cứu tại viện ISEAS-Yusof Ishak (Singapore) và Trung tâm Nghiên cứu Mỹ-Việt, Đại học Oregon, đó có thể là tín hiệu sẽ có những thay đổi trong quan hệ Việt Nam với các cường quốc?

Nhìn lại quá khứ, những bài học rút ra từ quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa được đúc kết qua bài nói chuyện của ông Hoàng Đức Nhã, cựu Bí thư của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, và John Negroponte, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ trong chính quyền của Tổng thống Richard Nixon.

Ông Nhã cho rằng lãnh đạo Mỹ đã đối xử với lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa theo kiểu “đại ca với đàn em” (big guy – small guy) chứ không phải là một đồng minh. Bài học kinh nghiệm cho Hoa Kỳ là nên biết lắng nghe đồng minh của mình, ông nói.

Đại sứ Negroponte nhận định cuộc chiến Việt Nam không phải là chiến tranh du kích mà là quy ước. Tết Mậu Thân du kích miền Nam đã bị Hà Nội thí mạng gần hết và Bắc Việt bắt đầu đem xe tăng vào chiến trường. Sai lầm của Mỹ là sau Mậu Thân, thay vì bắt đầu rút quân, Tướng Westmoreland lại yêu cầu Tổng thống Lyndon Johnson đưa thêm 200.000 lính Mỹ vào chiến trường. Hoa Kỳ đã có tầm nhìn sai khi cho rằng Trung Cộng có ý định nhuộm đỏ Đông Nam Á, mà thực ra Liên Xô khi đó và cho đến sau này mới là quốc gia yểm trợ Hà Nội bành trướng chủ thuyết cộng sản, theo ông.

Về kinh tế, yếu tố Trung Quốc có nhiều ảnh hưởng đến Việt Nam, từ gia nhập WTO đến ký kết các hiệp ước kinh tế song phương với các quốc gia, theo Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành từ Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược tại Hà Nội và hiện là giáo sư chính trị học tại Đại học Oregon. Đồ biểu ông đưa ra cho thấy Hoa Kỳ không phải là quốc gia có nhiều dự án FDI đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, mà đứng thứ 11, sau Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hong Kong, Đài Loan, Hà Lan v.v… Theo diễn giả, tiền của người Việt từ nước ngoài gửi về không giúp cho phát triển kinh tế mà còn làm chậm lại, như trường hợp của Philippines có lượng kiều hối rất cao.

Về hợp tác quốc phòng, Tiến sĩ Khang Vũ từ Đại học Boston nhận định việc bán vũ khí cho Việt Nam thì Nga vẫn là nguồn cung cấp lớn nhất và thuận tiện hơn vì mua vũ khí của Mỹ có những ràng buộc đi kèm. Do đó, Mỹ và Việt Nam khó có thể trở thành một liên minh an ninh và Hà Nội không thể thoát Trung.

Bài nói chuyện về bia tưởng niệm John McCain bên bờ hồ Trúc Bạch ở Hà Nội có những điều ít người biết. Đó là nơi phi cơ chiến đấu của Thiếu tá John McCain, sau là thượng nghị sĩ và ứng viên tổng thống, bị bắn rơi trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc năm 1967 và bị bắt làm tù binh. Theo Giáo sư Christina Schwenkel, Đại học U.C. Riverside, nguyên thủy đó là tấm bia ghi công dân quân đã bắn rơi máy bay và bắt sống được phi công McCain. Từ khi hai nước có quan hệ ngoại giao, nơi đây đã trở thành địa điểm thăm viếng của các dân cử Quốc hội, quan chức quốc phòng Mỹ và gần đây nhất, khi còn tại chức, Tổng thống Joe Biden và Phó Tổng thống Kamala Harris cũng đã đến đặt vòng hoa tưởng niệm. Trong những năm qua, bia này đã được sửa chữa và tu bổ nhiều lần và tùy theo cảm nhận về chiến tranh của khách viếng, hành động đó có thể là để nhớ ơn dân quân đã bắn rơi máy bay Mỹ hay là để tưởng niệm một phi công, anh hùng của nước Mỹ.

Tiến sĩ Andrew Wells-Dang của Viện Hòa bình cho biết trong bài phát biểu của ông rằng Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh ở Thành phố Hồ Chí Minh có dự định được đổi tên thành Bảo tàng Hòa bình, nhưng tình hình lúc này phức tạp trên thế giới có liên quan đến Hoa Kỳ nên chưa thuận tiện. Là người trực tiếp làm việc với đối tác Việt Nam, ông nói rằng đã có những thêm bớt, sắp xếp lại nội dung trưng bày tại bảo tàng theo một dự án được sự hỗ trợ của cơ quan USAID, và điều đó cho thấy quan hệ hai nước dần có nhiều gắn bó hơn. Theo kế hoạch, bảo tàng với sự sắp xếp mới sẽ mở cửa vào giữa năm nay, nhưng vì chính sách mới của Hoa Kỳ đã dẹp bỏ USAID nên dự án phải dừng.

Nhiều đề tài liên quan đến di sản chiến tranh đã được các diễn giả trình bày, từ việc tìm kiếm và xác định hài cốt binh lính còn mất tích, cho đến số phận của Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, nơi chôn cất hàng vạn tử sĩ Việt Nam Cộng hòa.

Tiến sĩ Alex-Thái Đình Võ từ Đại học Công nghệ Texas (TTU) đã nói về số phận của tử sĩ, mà cho đến nay chỉ có lính Mỹ hay bộ độ cộng sản được quan tâm, còn lính Việt Nam Cộng hòa bị bỏ ra ngoài. Trong mong muốn đem lại sự hòa giải, ông đã làm việc nhiều năm để đưa vấn đề Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa và số phận lính Việt Nam Cộng hòa còn mất tích vào trong các cuộc thảo luận liên quan đến quan hệ Việt-Mỹ. Đến nay vấn đề này đã được Hoa Kỳ quan tâm, nhưng phía Việt Nam vẫn chưa đồng ý.

Theo nghiên cứu sinh Hà Tiên-Dung từ Đại học Stanford, đó là một quyết định chính trị của Hà Nội, khi từ chối việc Hoa Kỳ đưa người lính Việt Nam Cộng vào nghị trình thương thảo, qua bài nói chuyện của cô về công tác tìm kiếm, xác định những liệt sĩ miền Bắc.

Hòa giải dân tộc cũng được nhiều người gốc Việt tham dự hội thảo nhắc đến, từ diễn giả cho đến khách tham dự. Câu hỏi là làm sao để có hòa giải?

Cựu phóng viên chiến trường và thuyền nhân vượt biển Vũ Thanh Thủy nói rằng Hà Nội chỉ cần thừa nhận lịch sử của học tập cải tạo, lịch sử của thuyền nhân vượt biên, vượt biển.

Tiến sĩ Phạm Thị Hồng Hà từ Viện Sử học Hà Nội nói về các chính sách hòa giải của nhà nước đối với Việt kiều từ sau chiến tranh cho đến cuối thập niên 1990. Sinh viên ban tiến sĩ sử tại Đại học Berkeley, Vincent Trần, đã có bài tham luận về những nỗ lực muốn hòa giải từ phía người Việt hải ngoại, điển hình là tổ chức Tập hợp Dân chủ Đa nguyên, tức nhóm Thông Luận, của ông Nguyễn Gia Kiểng.

Tiến sĩ Alex-Thái đưa đề nghị cần “hóa giải” trước khi có “hòa giải”. Tôi có nêu câu hỏi, nếu Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu đưa 3 đề nghị cụ thể để đem lại hòa giải thì theo ba diễn giả của hội thảo chủ đề “Các thách thức tiến tới hòa giải” (Challenges to Reconciliation) là những đề nghị gì. Nhưng không ai có câu trả lời.

Trong phần nói chuyện của ông Hoàng Đức Nhã, khi hỏi ông nghĩ gì về những tuyên bố của Tổng Bí thư Tô Lâm về một “kỷ nguyên mới” cho đất nước, ông Nhã trả lời rằng ông muốn thấy lãnh đạo Hà Nội “walk the talk”, tức là lời nói phải đi đôi với việc làm, còn chỉ nói suông thì dễ lắm. Ông gợi ý cho trùng tu Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa và trả lại tài sản đã tịch thu của dân, của người đã bỏ nước ra đi.

Dù nhiều thập niên đã qua đi, khi nhắc lại quá khứ đau buồn, nhiều diễn giả đã xúc động, trong đó có diễn giả danh dự của hội nghị là bà Elizabeth Phù, một phụ nữ đã từng làm cố vấn phụ trách vùng Đông Á, Đông Nam Á và châu Đại Dương trong Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổng thống George W. Bush (con) và Tổng thống Barack Obama.

Bà đã khóc khi kể lại chuyện cùng cha mẹ vượt biên thất bại và bị bắt đưa vào trại cải tạo. Chuyến đi thứ nhì vào năm 1979, gia đình bà cùng 250 người khác ra đến hải phận quốc tế thì tàu bị hỏng máy. Gặp một tàu đánh cá, họ đòi 10 chiếc nhẫn vàng thì mới kéo tàu hư vào bờ. Cha của bà đã gom đủ 10 chiếc nhẫn, bơi qua tàu kia đưa cho họ và sau đó con tàu vượt biển được kéo vào bờ, rồi vào trại Pulau Bidong. Khi đó bà mới 4 tuổi.

Bà tốt nghiệp Đại học U.C. Berkeley với bằng cử nhân chính trị học và thạc sĩ quan hệ quốc tế từ U.C. San Diego. Bà chọn ngành học này vì muốn chu du thế giới. Công việc trong chính phủ của bà là tại Bộ Quốc phòng và nhờ khả năng và tính chuyên cần, bà đã trở thành cố vấn cho hai tổng thống Mỹ và có cơ hội đi đến nhiều quốc gia như từng mơ ước.

Bà nói làm chính sách là đặt quyền lợi nước Mỹ lên trên hết. Khi Tổng thống Barack Obama đón tiếp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Bạch Ốc, bà có mặt tại đó, trong khi cha của bà tham gia biểu tình ở California để phản đối chuyến viếng thăm của lãnh đạo Hà Nội. Bà hiểu người cha và cộng đồng người Việt có những quan tâm về quê hương, khi có thể bà tìm cách đưa vào chính sách.

Đinh Phương Thảo hiện là sinh viên ban tiến sĩ tại Đại học Michigan, là một nhà hoạt động cho nhân quyền và từng bị giam tù ở Việt Nam. Cô rơi nước mắt khi nhớ về những bạn cùng chí hướng đang còn bị giam tù. Theo cô, từ khi Hoa Kỳ và Việt Nam nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện thì những nhà ngoại giao Mỹ và từ các đại sứ quán khác cũng đã ít quan tâm hơn đến những anh chị em ở tù vì lên tiếng tranh đấu cho tự do, dân chủ.

Hoàng Thị Minh Hồng là nhà hoạt động môi trường bị nhà nước cáo buộc trốn thuế, bị kết án tù và phạt tiền. Nhờ can thiệp của Hoa Kỳ, các trường đại học và tổ chức quốc tế, năm ngoái bà đã được qua Mỹ tị nạn. Bà Hồng cho biết các tổ chức xã hội dân sự và NGO hiện nay hoặc do nhà nước kiểm soát hoặc phải giải thể.

Thảo luận chủ đề “Những thách thức cho việc hòa giải” với Giáo sư Nguyễn Thị Liên Hằng (trên bục) Phạm Thị Hồng Hà, Vincent Trần và Alex Thái Đình Võ (Ảnh: Bùi Văn Phú)Nguồn hình ảnh,Bùi Văn Phú

Ngoài những bài nói chuyện về quan hệ hai nước, về hòa giải, hội thảo còn có những nghiên cứu về cách nhìn của giới trẻ về cuộc chiến Việt Nam, qua những dữ liệu từ những thảo luận trên mạng xã hội đã được Tiến sĩ Thủy Nguyễn của Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ, Đại học Oregon thu thập và phân tích.

Hay một cuộc thăm dò ý kiến với sự tham gia của 51 sinh viên từ 4 đại học ở Việt Nam về suy nghĩ của các bạn liên quan đến dân chủ, hoạt động sinh viên, thực hiện bởi Hoàng Cẩm Thanh, đang giảng dạy tại Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh và Nguyễn Thúc Cường, sinh viên ban tiến sĩ Đại học McGill. Kết quả của thăm dò cho thấy quan điểm của đa số sinh viên rất giống với nhà nước, khiến có ý kiến nói rằng không thể tin được các thăm dò thực hiện trong nước Việt Nam vì ít ai dám nói thật.

Trong lãnh vực văn học là bài thuyết trình của Vinh Phú Phạm, phó giáo sư trường Bard HSEC, về văn chương của người Việt hải ngoại. Theo ông, nhiều tác giả nay không viết về quá khứ chiến tranh, như Ocean Vương với On Earth We’re Briefly Gorgeous và Thao Thai với Banyan Moon mà ông trích dẫn và phân tích. Ông chỉ đề cập đến các tác phẩm bằng tiếng Anh, mà thực ra văn học hải ngoại còn một mảng nữa, ít được giới học thuật nghiên cứu, đó là những tác phẩm tiếng Việt, theo nhận định của Tiến sĩ Alex-Thái Đình Võ.

Đó cũng là điều còn thiếu trong ngành Việt học, mà theo Giáo sư Peter Zinoman trong phần đúc kết sau hai ngày hội thảo, với đường hướng coi Việt Nam là trung tâm, theo ông mảng về Việt Nam Cộng hòa, về những nhà hoạt động và về cộng đồng người Việt ở Mỹ còn nhiều chủ đề cần nghiên cứu.

Qua hội thảo, 15 bài thuyết trình có thể triển khai thành những bài nghiên cứu học thuật để xuất bản trên các tạp chí chuyên ngành.

Kết thúc chương trình, các thành viên của US-VN Research Center tại Đại học Oregon, dưới sự điều hành của Giáo sư Tường Vũ, đã trình bày về các hoạt động, dự án xuất bản, quan hệ và sinh hoạt với cộng đồng người Việt, khuyến khích sinh viên nghiên cứu về Việt Nam để giới học thuật biết đến và hiểu hơn về cộng đồng người Việt ở Mỹ và về một nước Việt Nam Cộng hòa nay không còn nhưng đã từng hiện hữu trong 20 năm.

Trong 30 năm qua, từ ngày Giáo sư Peter Zinoman dạy sử tại Đại học U.C. Berkeley, ông đã đào tạo được một số tiến sĩ sử chuyên về Việt Nam, trong đó có nhiều người gốc Việt: Tường Vũ, Nữ-Anh Trần, Martina Nguyễn, Jenny Phạm, Uyên Nguyễn, Alex Holcombe, Jason Picard và họ đang giảng dạy tại các đại học ở Hoa Kỳ và Việt Nam.

Tác giả Bùi Văn Phú là giảng viên đại học cộng đồng, nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, California.

Nguồn: FB. Tnha Nguyen cùng với Nhien Nguyen