Trần Phúc Nguyên

Cầu Khánh Ninh bắc qua Ngự Hà trên đường Trần Văn Kỷ, 2 đầu cầu nối 2 đường dọc bờ Ngự hà là Triệu Quang Phục và Ngô Thế Lân.Trên đoạn Ngự hà này có 3 cầu, theo thứ tự: cầu Khánh Ninh, cầu Vĩnh Lợi và Tây Thành Thuỷ quan.
Cầu Vĩnh Lợi một chiều từ bờ Bắc Ngự Hà phường Tây Lộc sang bờ Nam phường Thuận Hoà đối với ô tô, cầu Khánh Ninh ô tô đi theo chiều ngược lại từ phường Thuận Hoà sang Tây Lộc.
Cầu Khánh Ninh có chiều dài 44,6 m; rộng 4,95 m và cao 7,25m; vòm cầu bên dưới thông thủy rộng 6,4m. Cầu Khánh Ninh được xây dựng từ năm 1825 đến nay được 200 tuổi. Cầu có cấu trúc và chi tiết kiến trúc với nhiều điểm tương đồng với cầu Vĩnh Lợi. Đầu cầu Khánh Ninh bờ Bắc hiện còn nhà bia khắc bài ký về việc đào Ngự hà và xây cầu Khánh Ninh (Khánh Ninh Kiều Bi ký) dựng vào năm Minh Mạng thứ 17 (1836). So với các cầu còn lại, cầu Khánh Ninh có tổng thể kiến trúc cầu và nhà bia hầu như còn nguyên vẹn nhất cho đến ngày nay.

Tuy nhiên, cầu Khánh Ninh hiện đang mang trên thành cầu các đường ống nổi bật như điện thoại, cáp quang, điện..đặc biệt đường ống nước băng ngang qua vòm cầu là mất vẻ mỹ quan, phía đối diện thì dây điện thoại, cáp viễn thông giăng ngang qua sông rối rắm nhưng đến nay thành phố Huế và Trung tâm bảo tồn di tích và các đơn vị liên quan vẫn chưa khắc phục được.
Xin giải thích thêm: Cầu Khánh Ninh trước năm 1975 gọi là “Cống Hắc Báo” do có Đại đội lính Hắc Báo của quân đội VNCH đóng ở đó để bảo vệ cầu và sân bay dã chiến Tây Lộc.

Bài văn bia vua Minh Mạng viết về cầu Khánh Ninh bằng chữ Hán được dịch ra như sau:
Thời Gia Long đào sông Ngự Hà bắt đầu từ Võ Khố đến chỗ ra khỏi phía đông Kinh thành, thông với Hộ Thành Hà. Chỉ ở phần thượng lưu của nó là chưa thông.
Nghĩ kỹ thấy rằng sông này rất tiện lợi cho mọi người trong sự đi lại để làm việc công cũng như việc tư. Nếu ở thượng lưu không thông thì ai muốn đi về phía tây Kinh thành cũng gặp sự bất tiện. Vả lại, dòng nước chẳng nối tiếp với đầu nguồn thì ứ đọng đục bẩn, không thể cung ứng cho việc ăn uống và sử dụng của quân đội và dân chúng.
Cho nên, vào tháng 6 năm Ất Dậu, năm Minh Mạng thứ 6, bèn đào một thủy đạo từ chỗ tắc của con sông, hướng về phía tây, ra khỏi Kinh thành, thông với Hộ Thành Hà. Khi đó, sông đã thông ghe thuyền, nhưng trên các đường cái, người và ngựa đi lại, không thể không xây cầu để qua sông. Bèn xây cầu đá ở đường cái Ngự Hà, dùng cung Khánh Ninh, gần bên trái cầu để đặt tên là cầu Khánh Ninh.
Kế đến, từ đường cái cửa Chánh Nam đến đường cái cửa Tây Bắc, ở chổ qua sông cũng xây một cầu đá, tên là cầu Vĩnh Lợi.
Lại ở chỗ phía tây của thành vượt qua sông, thiết lập một cửa quan, trên thì xe cộ qua lại, dưới thì ghe thuyền vào ra, gọi tên là Tây Thành Thủy Quan. Trên tường đặt súng đại bác, trông càng thêm hùng tráng.
Lại nữa, ở đầu ngoài quách phía tây của thành, cũng xây một cầu đá, gọi là cầu Hoằng Tế.
Các cầu và cửa quan ấy, ở dưới đều xây bằng gạch, ở trên thì xây bằng đá. Việc thi công kéo dài đến nửa năm mới hoàn tất, thật là vững chãi.
Mặc dù kinh phí lên đến cả chục vạn, nhưng nào có tiếc, vì có thể để lại muôn năm, ban ơn cho hàng triệu người, nên cũng không thể không làm.
Nay nhớ đến và ghi lại nguồn gốc của con sông và các cầu để phó thác cho bia đá.
Sáng sớm ngày mồng một tháng 10 năm Minh Mạng thứ 17.
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế



Lời bình:
Người đóng góp nhiều nhất
Kính thưa quý anh Loan Nguyen , Trò Tê , Tue Ton
1. Nếu gọi các cây cầu vượt sông trên Ngự Hà là “cống” thì cũng đúng, vì đây là thói quen nói năng lâu đời của người Huế.
– Đồng thời nếu gọi chúng là “cầu” cũng không sai. Vì vua Minh Mạng, người khai sinh ra các cây cầu này đã đích thân ngự bút trong hai bài văn bia đã gọi chúng là “cầu”.
– Nhà vua (là người ban lệnh thiết kế và thi công các cây cầu này) đã viết như vậy thì chắc chắn là không thể sai được.
2. Cấu trúc dạng vòm (hình cung) không chỉ dùng trong kỹ thuật xây cống mà còn được dùng phổ biến trong xây cầu vòm, xây cổng vòm, xây cửa vòm trước đây hàng ngàn năm.
– Nếu thấy cấu trúc nào có hình dáng vòm thì quy kết nó phải là cống thì không thuyết phục.
– Muốn kết luận nó là cầu hay cống thì trước hết phải xem xét đến công năng của nó được dùng để làm gì (để vượt sông hay để dẫn nước ?), sau đó mới xem xét đến kết cấu, đến vật liệu.
– Có ai dùng cống để đi qua sông đâu ?
3. Các cây cầu bên ngoài kinh thành Huế (trên Hộ Thành Hào) có cấu tạo hoàn toàn giống các cây cầu trên Ngự Hà vậy mà từ xưa đến nay đều gọi là “câù cửa Ngăn”, “câù cửa Quảng Đức”, “cầu cửa An Hoà” … không ai gọi là “cống cửa Ngăn”, “cống cửa An Hoà”, “cống cửa Đông Ba” … cả là vì sao ? Vì chúng đích thực là những cây cầu (Mời xem hình ở bên dưới).

4. Câu đối “Ngói đỏ lợp nghè lớp trên đè lớp dưới / Đá xanh xây cống hòn dưới nống hòn trên” chỉ là một câu đối văn chương.
– Vế sau họ dùng chữ “cống” để đối với chữ “nghè”cho chỉnh, còn nếu gọi “đá xanh xây cầu”, “đá xanh xây cổng” thì vẫn đúng.
– Đây hoàn toàn không phải là một tài liệu lịch sử hay tài liệu kỹ thuật xây dựng. Dùng câu đối văn chương này để kết luận các công trình vượt sông Ngự (Ngự Hà) là “cống” thì không thoả đáng.
5. Tương tự như vậy mọi người vẫn nói “cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp” ai cũng biết là sai nhưng do thói quen nói năng lâu đời nên không ai sửa lại “cầu Trường Tiền sáu nhịp mười hai vài” cho đúng cả.
6. Tóm lại, gọi các công trình vượt sông Ngự là “cống” cũng đúng, gọi là “cầu” cũng không sai. Gọi thế nào cũng được cả.
– Dạ xin cảm ơn.
Người đóng góp nhiều nhất
Loan Nguyen Xây vòm làm cầu cống đã có từ xưa thành những công trình kiến trúc lớn. Kỹ thuật nầy còn được thấy dùng ở các cầu cống xe lửa Huế Đà Nẵng. Các viên đá đã được cắt đầu to đầu nhỏ như phần trên của một múi quít. Mình có thể xây kiểu nầy với những viên gạch vuông, làm vòm cổng rất xinh và nhiều áp dụng khác. Vòm chịu sức đè rất lớn. Người cẩn thận nêm chỗ trống như múi quít ấy bằng những mảnh ghè nung thật cứng, cộng với xi măng. Cái vòm cống chịu cho sức nặng của cầu; ít nhất nó có công dụng bằng công dụng thoát nước. Nói khác không chỉ có muc đích duy nhất cho nước chảy hay đò qua.

Những chiếc cống lộ-thiên xây kiểu này, không chỉ có công-dụng thoát nước, mà còn có công-dụng làm cầu, để người hai bên bờ cống đi qua-lại . Có lẽ … nên gọi loại cống kiểu này là “cầu-cống”, vừa là cầu, vừa là cống. Chứ chỉ gọi nó là cống, thì bỏ mất công-dụng quan-trọng là cầu. Chữ cống đứng một mình, có lẽ … nên dành cho loại cống vòm ngầm (vaulted sewer), không có công-dụng làm cầu. Nếu Thầy Loan giới-thiệu những Cống Lương-Y, Cống Khánh-Ninh với du-khách ngoại-quốc nói tiếng Anh, thì Thầy sẽ dùng những chữ Lương-Y Sewer, Khánh-Ninh Sewer ? hay Lương-Y Bridge, Khánh-Ninh Bridge ?
https://s26162.pcdn.co/…/Screen-Shot-2021-04-09-at-2.18…
FB. Tran Phuc Nguyen